Phong trào Đồng Khởi: nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa

Phong trào Đồng Khởi là dấu mốc quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hơn 60 năm đi qua thắng lợi của phong trào Đồng Khởi vẫn còn nguyên giá trị, là bài học quý báu cho quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức Đảng ở các địa phương. Cùng tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của phong trào Đồng Khởi trong bài viết dưới đây của chuthapdoquangninh.org.vn

Phong trào Đồng Khởi nổ ra trong hoàn cảnh nào? Nguyên nhân

Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7/1954) có hiệu lực, đất nước chia làm 2 miền. Ở miền Nam, Mỹ ra sức phá hoại Hiệp định, hất cẳng Pháp, thiết lập chính quyền Ngô Đình Diệm và quân đội tay sai. Chúng tiến hành nhiều cuộc thảm sát đẫm máu ở Củ Chi, Mỏ Cày, Cam Lộ, Hướng Điền. Đồng thời, thực hiện chiến lược “tố cộng, diệt cộng” với mục đích loại bỏ những người cộng sản, triệt phá tư tưởng và tổ chức cộng sản.

Phong trào Đồng Khởi diễn ra khi đất nước chia cắt 2 miền Nam - Bắc

Phong trào Đồng Khởi diễn ra khi đất nước chia cắt 2 miền Nam – Bắc

Đầu năm 1959, ban hành “Luật 10/59”, chính quyền Mỹ – Diệm tăng cường sử dụng bạo lực phát xít, lê máy chém khắp miền Nam, thẳng tay đàn áp, bắt giam và sát hại quần chúng cách mạng, phơi bày rõ bản chất xâm lược và bản nước của chúng.

Trước tình hình đó, tháng 1/1959 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, thống nhất ban hành Nghị quyết 15 về công tác “Tăng cường đoàn kết, kiên quyết, đấu tranh giữ hòa bình, thực hiện thống nhất đất nước”. Nghị quyết 15 cũng nêu rõ mục tiêu, con đường của cách mạng miền Nam đó là “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, tập hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của dân”.

Hội nghị Trung ương Đảng 15 cũng xác định cách mạng miền Nam không có con đường nào khác là sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ chính quyền Mỹ – Diệm. Phương hướng cơ bản đó là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang.

Cuối năm 1950, Nghị quyết 15 về đến các địa phương ở miền Nam đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng, mở ra cao trào cách mạng mới, đó chính là “pháo lệnh” cho công cuộc Đồng Khởi ở miền Nam Việt Nam vào đầu năm 1960.

Xem thêm: Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh : Nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa

Phong trào đồng khởi diễn ra vào thời gian nào? Diễn biến phong trào Đồng Khởi

Tháng 12/1959, Liên Tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ triệu tập đại biểu các tỉnh Kiến Phong, Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, An Giang, Kiến Tường tổ chức Hội nghị tại Hồng Ngự để bàn về biện pháp thúc đẩy phong trào cách mạnh. Hội nghị đã quyết định phát động quần chúng tại các xã, ấp khởi nghĩa.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị Liên Tỉnh ủy, Tỉnh ủy Bến Tre đã thống nhất, kiên quyết phát động và lãnh đạo quần chúng nổi dậy và lựa chọn 3 xã Bình Khánh, Phước Hiệp, Định Thủy (huyện Mỏ Cày) làm điểm sáng chỉ đạo. Sáng 17/1/1960, Tổ hành động của xã Định Thủy đã đánh chiếm Tổng đoàn dân vệ đóng ở Định Phước, thu toàn bộ súng, đạn và mở đầu cho phong trào Đồng Khởi.

Phong trào Đồng Khởi diễn ra đầu tiên tại 3 xã của tỉnh Bến Tre

Phong trào Đồng Khởi diễn ra đầu tiên tại 3 xã của tỉnh Bến Tre

Ngày 17- 18/1/1960, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra ở các xã Bình Khánh, Phước Hiệp và các xã khác ở trong huyện Mỏ Cày rồi lan rộng ra toàn tỉnh Bến Tre. Quần chúng nhân dân đã sử dụng gậy gộc, giáo mác, nổi trống mõ, đốt ống lói để bao vây, bức rút, bức hàng đồn bốt và phá thế kìm kẹp của địch.

Sau tuần lễ Đồng khởi, ta đã bức rút, bức hàng 20 đồn bốt, thu hàng trăm trúng; đồng thời, xây dựng được 4 đội vũ trang tuyên truyền. Mỹ – Diệm coi Bến Tre là cái “ung độc Kiến Hòa” nên đã cho quân đến phản kích. Dù lực lượng vũ trang ở tỉnh mới thành lập nhưng cũng đã khiến chúng khiếp sợ.

Ngày 25/3/1960, Mỹ – Diệm đưa hơn 1000 quân vào Bến Tre bao vây 3 xã Bình Khánh, Định Thủy, Phước Hiệp với ý định dập tắt phong trào và tiêu diệt cơ quan lãnh đạo của ta. Nhưng với sự vững vàng, mưu trí, Ban chỉ huy Đồng Khởi đã vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự chiến tranh; kết hợp chặt chẽ giữa chính trị, quân sự, binh vận và đặc biệt là vận động quần chúng nhân dân liên tục kéo về thị trấn Mỏ Cày để đấu tranh trực diện khiến cho quân địch hoang mang.

Trước khí thế và tinh thần anh dũng của quân và dân ta, sau 12 ngày càn quét quân địch buộc phải rút lui.

Nữ tướng Nguyễn Thị Định - “Linh hồn” của phong trào Đồng Khởi

Nữ tướng Nguyễn Thị Định – “Linh hồn” của phong trào Đồng Khởi

Sau đợt thắng lợi đó, phong trào Đồng Khởi không ngừng lớn mạnh. Tỉnh ủy chủ trương mở đợt nổi dậy lần hai, bắt đầu vào ngày 23/9/1960, điểm Đồng Khởi là Châu Hòa, Châu Phú và Châu Thới. Bằng sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận ta đã giành thắng lợi rực rỡ với 60 đồn địch bị san bằng, 400 tên địch bị giết, 40 xã được giải phóng.

Tính đến cuối năm 1960, ta đã giải phóng hoàn toàn 51/115 xã, 21 xã giải phóng một phần, nhân dân đã làm chủ 300/500 ấp. Hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn về cơ bản bị phá vỡ. Đảng bộ Bến Tre phát triển rõ rệt, 80 xã có chi bộ với 937 đảng viên, các đoàn thể quần chúng phát triển mạnh. Tỉnh xây dựng được 2 đại đội vũ trang tập trung, ở huyện có từ 1-2 trung đội; lực lượng đấu tranh chính trị hùng mạnh tiêu biểu là “Đội quân tóc đỏ”; hơn 80.000 mẫu ruộng được chia cho dân nghèo.

Ngày 28/12/1960, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tỉnh Bến Tre được thành lập tại Bến Bàu, xã Mỹ Chánh, huyện Ba Tri.

Cùng với Bến Tre, nhân dân và lực lượng vũ trang ở Trung Nam Bộ, Tây Nam Bộ đã vùng lên mạnh mẽ và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Từ thế đấu tranh chính trị là chủ yếu ta đã chuyển sang đấu tranh chính trị với vũ trang, đập tan chính quyền địch ở nông thôn, làm chủ chính quyền.

Phong trào Đồng Khởi phát triển khắp các tỉnh miền Nam

Phong trào Đồng Khởi phát triển khắp các tỉnh miền Nam

Phong trào Đồng Khởi phát triển và mở rộng nhanh chóng vào tháng 9/1960 trên khắp miền Nam từ Đông Nam Bộ, Tây Nguyên cho đến các tỉnh miền Tây, đồng bằng Khu 5. Theo chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ, đêm 25 rạng sáng ngày 26/1/1960, lực lượng vũ trang cách mạng tấn công vào căn cứ Tua Hai (Tây Ninh) tiêu diệt và bắt sống 500 quân ngụy, giải phóng được 24 xã trong tỉnh, xóa bỏ 70% bộ máy kịp kẹp của địch ở các xã, ấp. Hòa nhịp với phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre và Tây Ninh là các tỉnh Mỹ Tho, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Châu Đốc,…

Kết quả của phong trào Đồng Khởi

Tính đến cuối năm 1960, ta đã giành quyền làm chủ 1363 xã trên toàn miền Nam ( 984 xã ở Nam Bộ, Khu 5 là 379 xã), giải phóng 5.6 triệu dân. Phong trào đã thu hút hàng triệu người dân tham gia đấu tranh chính trị trực diện, thu lại 17 vạn hecta đất bị Mỹ -Diệm cướp trả lại cho nông dân.

Cách mạng đã làm chủ được vùng căn cứ rộng lớn, có ý nghĩa chiến lược, nối từ Tây Nguyên xuống miền Đông, miền Tây Nam Bộ và các tỉnh đồng bằng Khu 5. Phong trào Đồng Khởi ở nông thôn đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị đặc biệt là ở Sài Gòn – Gia Định.

Ý nghĩa của phong trào Đồng Khởi

Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi đã giáng một đòn nặng nề vào chính sách mới của thực dân, làm lung lay chính quyền Ngô Đình Diệm. Tạo bước phát triển nhảy vọt cho cách mạng Việt Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tấn công. Đồng thời, tạo điều kiện cho sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960). Mặt trận đoàn kết toàn dân chống Mỹ – Diệm, lập chính quyền cách mạng dưới hình thức Ủy ban nhân dân tự quản.

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập

Với các thông tin trên đây về phong trào Đồng Khởi, hy vọng sẽ giúp ích với bạn. Cập nhật thêm nhiều thông tin hữu ích khác về lịch sử bằng các truy cập website chuthapdoquangninh.org.vn, chắc chắn sẽ giúp ích với bạn rất nhiều đó.

Bài viết liên quan